
Trong những năm gần đây, số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã tăng lên đáng kể, 2019: gần 153 nghìn người; 2020 và 2021 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài giảm đáng kể chỉ còn khoảng 78 nghìn và 45 nghìn người lần lượt các năm; năm 2022, sau khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tăng trở lại với 143 nghìn người. Trong 8 tháng đầu năm 2023 có 97.223 người. Đại bộ phận người lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm tập trung chủ yếu tại 3 thị trường truyền thống và trọng điểm đối với lao động Việt Nam là Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc, chiếm trên 93% số lượng lao động xuất cảnh hàng năm với việc làm phù hợp và ổn định, thu nhập tốt. Những năm gần đây số lượng lao động của các địa phương phía nam đi làm việc ở nước ngoài cũng đã tăng lên.
Theo số liệu ước tính, hiện có khoảng 580 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở gần 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, phần lớn tập trung ở các thị trường: Nhật Bản với khoảng 250 nghìn người; Đài Loan (Trung Quốc) với khoảng 230 nghìn người; Hàn Quốc với khoảng 50 nghìn người; còn lại ở các thị trường Châu Âu, Trung Đông và Malaysia. Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với nhiều loại hình ngành nghề công việc khác nhau, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất chế tạo chiếm 80% (cơ khí, dệt may, giầy da, lắp ráp điện tử...); còn lại trong lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, thủy sản, dịch vụ (chăm sóc người già, người bệnh, giúp việc trong gia đình). Lao động làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao và ổn định, điều kiện làm việc được bảo đảm, khoảng 1.200 - 1.500 US$/tháng tại Nhật Bản và Hàn Quốc, 800 - 1.200 US$ tại Đài Loan và các nước Châu Âu, 600 - 1.000 US$/tháng đối với lao động có nghề và 400 - 600US$ đối với lao động phổ thông ở địa bàn Trung Đông, Malaysia.
Nhìn chung, người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài được người sử dụng lao động đánh giá tích cực về sự cần cù, chăm chỉ, khéo tay với khả năng nắm bắt công việc nhanh, ham học hỏi, sáng tạo và làm việc năng suất, chất lượng, nên các chủ sử dụng nước ngoài muốn tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam hơn so với các nước khác. Tuy nhiên, lao động Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định về khả năng giao tiếp ngoại ngữ và ý thức tổ chức kỷ luật.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Lao động ngoài nước, người lao động của các địa phương tham gia các Chương trình của Trung tâm còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài; kết quả không đồng đều giữa các địa phương và còn hạn chế so với khu vực khác, cụ thể số lượng người lao động của 23 tỉnh, thành phố phía nam chỉ chiếm 10% số lượng lao động đưa đi của Trung tâm.
Quang cảnh hội thảo
Phát biểu kết luận tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Bá Hoan nhấn mạnh, Chương trình đưa lao động, chuyên gia đi xuất khẩu lao động ngoài nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập; nâng cao kỹ năng, trình độ chất lượng nguồn nhân lực và nguồn thu ngoại tệ, đồng thời quảng hình ảnh đất nước con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Để nâng cao hiệu quả số lượng tham gia các Chương trình của người lao động phía Nam, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giao Trung tâm Lao động ngoài nước phối hợp với các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh/thành phố khu vực phía nam tăng cường công tác thông tin, quảng bá các chương trình; thông tin kịp thời kế hoạch tuyển chọn lao động để người lao động biết, tham gia; có phương án tuyển chọn đúng đối tượng, phù hợp với tình hình và đặc thù của các địa phương phía nam. Phối hợp chặt chẽ với Tổng cục dạy nghề, các Trường dạy nghề để nâng cao hiệu quả kết nối giữa công tác đào tạo và công tác tuyển chọn, phái cử lao động, từng bước nâng cao số lượng và tỷ lệ lao động đã được đào tạo nghề đi làm việc ở nước ngoài. Trao đổi với phía đối tác và triển khai mở các lớp đào tạo tiếng Nhật, đào tạo định hướng cho lao động tham gia Chương trình IM Japan, EPS; đặt phòng thi tiếng Hàn tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động khu vực phía nam tham gia các chương trình.
Cùng với đó, đẩy nhanh công tác chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các Chương trình do Trung tâm Lao động ngoài nước thực hiện hết hạn hợp đồng về nước; kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu người lao động với các đơn vị chức năng thuộc Bộ như Cục Quản lý lao động ngoài nước, Cục Việc làm và các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm Dịch vụ việc làm các địa phương, các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu tiếp nhận lao động để tư vấn, giới thiệu việc làm phù hợp.
Phương Thảo