


Tôn giáo - tín ngưỡng -- Dấu ấn sông rạch trong đời sống của người dân Nam bộ
![]() |
Nam bộ được mệnh danh là xứ sở của những dòng sông, nơi có khoảng 54.000 km chiều dài sông, rạch. Chính yếu tố sông rạch đã góp phần quan trọng vào cuộc sống của người dân nơi đây. Trước tiên là việc xác định địa bàn cư trú. Trong quá trình mở cõi vào phương Nam, các lưu dân đã nhận thấy tầm quan trọng của sông rạch trong việc ổn định cuộc sống của họ sau này. Việc chọn địa bàn cư trú ven sông rạch không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên mà đó là tất cả những kinh nghiệm thực tiễn từ việc tương...
Trước tiên là việc xác định địa bàn cư trú. Trong quá trình mở cõi vào phương Mô hình nhà ở thường thấy nhất là trước sông sau ruộng. Loại hình cư trú này rất phổ biến ở Mô hình cư trú thứ hai thường thấy là cư trú ở vùng giáp nước. Nơi đây thường diễn ra các buổi họp chợ, buôn bán, trao đổi hàng hóa và cũng là một cái “chợ thông tin” cho mọi người. Giáp nước là nơi ghe xuồng ngược xuôi thường hay ghé lại nghỉ ngơi, vào hàng quán để ăn uống đợi con nước sau. Điều này rất thuận tiện cho họ, vì cả hai chuyến đi về họ đều đi con nước xuôi, chèo chống đỡ mệt, khỏi phải tốn nhiều công sức. “Đi trên kinh rạch Nam Việt, gặp chỗ giáp nước thì luôn luôn ta thấy một cái chợ hoặc lớn hoặc nhỏ, ít nhất cũng là một xóm có vài quán bán hàng, vì chỗ giáp nước là chỗ đổi con nước; mười ghe thì chín ghe đậu lại đợi con nước sau. Trong khi nghỉ, người ta lên bờ mua thức ăn, đồ dùng, uống trà, cà phê, thế là tự nhiên nổi lên cái chợ. Tóm lại, chỗ giáp nước cũng tựa như một nhà ga có chỗ tránh trên đường thủy vậy”.(1) Ngoài việc mở hàng quán bán đồ ăn, thức uống, những nhà cư trú nơi giáp nước cũng mở các cửa tiệm như: nhà may, sửa máy xuồng, máy ghe, vá soong, vá chảo, tiệm tạp hóa... Giáp nước là nơi làm ăn được, nên càng ngày người ta kéo đến ở càng đông, rồi cửa tiệm thi nhau mọc lên, tạo nên một “xóm chợ” đông đúc và vui nhộn. Lần lần hình thành nên những khu, những xóm dân cư sinh sống cùng một nghề, cùng chia sẻ những hoạn nạn, khó khăn, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Mô hình nhà ở kế tiếp là trước đường sau sông. Đặc điểm cư trú này hình thành sau hai mô hình kia. Mô hình nhà ở này hình thành khi công cuộc khai phá đất hoang đã hoàn tất, cuộc sống xã hội phát triển, nhu cầu giao thương đã cao. Mô hình này thường tập trung ở nơi dân cư đông đúc, đường sá thuận tiện. Phía trước nhà là một con đường đất, hoặc đã được lót đan, có khi tráng xi măng. Đường tương đối lớn, đối diện bên kia đường thường là một dãy nhà, tạo nên thế đối diện và tâm điểm là con đường này. Phía sau nhà thường là con sông lớn, người ta cho bắc cầu để tiện việc sinh hoạt. Nhà kiểu này thường có đặc điểm trước là nền đất sau là nhà sàn. Phía nhà sàn này dùng cho sinh hoạt cá nhân của các thành viên trong gia đình như: nấu bếp, đặt vài cái lu chứa nước, làm nhà tắm, nhà vệ sinh. Đôi khi người ta cất thêm một cái chái bên nhà để làm chỗ đậu ghe xuồng. Nhà ở kiểu này ngoài việc tiện cho cho việc sinh hoạt vì ở gần nguồn nước còn được cái thuận lợi khác là được cả hai mặt tiền. Mặt trước, mặt sau đều có thể buôn bán được, hoặc có việc đi lại khi cần. *** Điều dễ nhận thấy nhất là người Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng, (Ca dao) Tác giả sách Gia Định thành thông chí cũng đã từng đề cập đến thói quen ăn mắm của người Nam bộ như sau: “ Đất Gia Định (hiểu là cả Nam bộ) nhiều sông suối cù lao, nên 10 người đã có người quen việc chèo thuyền, bơi nước, ưa ăn mắm; có người trong 1 bữa ăn, ăn hết 2 ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau”.(2) *** Cơ bản trang phục của người Cư dân ở Khoảng cuối thế kỷ thứ 17, những lưu dân từ miền Trung, miền Bắc đã lợi dụng sức gió mà xuôi thuyền vào phương Ghe ai đỏ mũi, trản lườn (Ca dao) Ghe xuồng không chỉ phục vụ việc đi lại và chuyên chở của con người còn là phương tiện đánh bắt thủy hải sản. Cư dân *** Người Nam bộ đã sáng tạo ra vô số từ ngữ có liên quan đến sông nước như: sông, ngòi, mương, máng, lạch, kinh, ao, hồ, rạch, xẻo, ngọn, rọc, dớn, láng, lung, bưng, biền, đưng, đầm, đìa, trấp vũng, trũng, tắc, gành, xáng, doi, vịnh, bàu... rồi các từ miêu tả sự vận động của dòng nước: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước trồi, nước sụt, nước dềnh, nước giựt, nước bò, nước chảy, nước đứng, nước nằm, nước chừng, nước nhửng, nước ương, nước chết, nước sát, nước rặc, nước cường, nước ghẻ, nước nhảy, nước thả, nước ngược, nước trốt, nước xuôi, nước rằm... Nước rằm chảy thấu (Ca dao) Trong giao tiếp hàng ngày, người Sông nước Ngày xưa, trên các dòng sông, kinh rạch ở Nam bộ, đêm đêm vẳng lên tiếng hò man mác của những người chèo ghe, những khách thương hồ, những cô gái chở hàng bông đi chợ, những anh chàng giăng câu, thả lưới. Môi trường sông nước cũng chính là nơi giao lưu, gặp gỡ, trao đổi, ướm hỏi, tỏ tình: Sông sâu sóng bủa láng cò (Ca dao) “Hình ảnh sông nước là cái khung làm tôn thêm vẻ đẹp cho những bức tranh về hạnh phúc lứa đôi, làm nhân chứng cho các cuộc thề bồi hẹn ước, đóng vai trò “gạch nối” giữa những mối tình. Sông nước cũng là nơi chứng kiến những biệt ly đổ vỡ, những đợi chờ thất vọng, những đổi thay giữa bến và thuyền. Mồ cha đứa đốn cây bần, Hay cụ thể hơn: Ghe lui khỏi bến còn dầm, (Ca dao) Sông rạch ở
TRẦN PHỎNG DIỀU ( Báo Cần Thơ)
|
Các tin khác: | |
▪ | Tính linh hoạt trong lễ cúng miễu ở Cần Thơ (12/04/2017) |
▪ | Nghi thức đón giao thừa trong đêm trừ tịch (24/01/2017) |
▪ | Tín ngưỡng thờ bà Cậu ở Cần Thơ (03/08/2016) |
▪ | Ngôi chùa trong đời sống người Hoa ở Cần Thơ (13/10/2015) |
▪ | Tìm hiểu đôi nét về thờ Thành hoàng trong các ngôi đình ở Cần Thơ (13/02/2012) |