Nghị định này quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; áp dụng với đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Dịch vụ logistics được cung cấp bao gồm các dịch vụ: Xếp dỡ container (trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay); kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển; kho bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải; chuyển phát; đại lý vận tải hàng hóa; đại lý làm thủ tục hải quan (bao gồm cả dịch vụ thông quan); hỗ trợ bán buôn, hỗ trợ bán lẻ bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa và giao hàng; vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển, đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ; vận tải hàng không; vận tải đa phương thức; phân tích và kiểm định kỹ thuật; các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Để được kinh doanh dịch vụ logistics, thương nhân kinh doanh các dịch vụ cụ thể thuộc dịch vụ logistics phải đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật đối với dịch vụ đó.
Ngoài ra, thương nhân tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh logistics bằng phương tiện điện tử có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Ngoài việc đáp ứng theo quy định của pháp luật đối với các dịch vụ cụ thể, còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.
Nghị định cũng quy định cụ thể điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/2/2018.
Thùy Trang