Mục tiêu của chương trình nhằm cải thiện và từng bước
nâng cao điều kiện sống của người nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc
thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã,
thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng nghèo; góp phần thu hẹp
khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng,
các dân tộc và các nhóm dân cư.
Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả
nước tăng lên 1,6 lần so với cuối năm 2011 (riêng các hộ nghèo ở các huyện
nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi
tăng gấp 2,5 lần); tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 2%/năm (riêng các huyện,
xã nghèo giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011 - 2015.
Chương
trình cũng đưa ra những chỉ tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2015 như: Phấn đấu
10% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ; 50% số xã đặc biệt khó
khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo và 30% số xã, thôn bản đặc biệt khó
khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn
theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định. Phấn đấu đến năm 2015, 85% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa
hóa hoặc bê tông hóa, 60% thôn, bản có đường trục giao thông được cứng hoá theo
tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Giao thông - Vận tải; 100% trung tâm xã có điện;
trên 90% thôn, bản có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh; các công
trình thủy lợi nhỏ được đầu tư đáp ứng 80% nhu cầu tưới tiêu cho diện tích cây
trông hằng năm; thu nhập của hộ nghèo tham gia mô hình tăng 15 - 20%/năm; bình
quân mỗi năm có 10% hộ tham gia mô hình thoát nghèo; 100% cán bộ, công chức xã,
trưởng thôn, bản và cán bộ đoàn thể được tập huấn về kiến thức, kỹ năng quản lý
và tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án; lập kế hoạch có sự tham
gia của người dân; phát triển cộng đồng.
File đính kèm
Minh Minh (Quyết định số 1489/QĐ-TTg)